Từ hướng tiếp cận xã hội học về văn hóa, tác
giả bài viết đưa ra cách hiểu về khái niệm văn hóa gia đình: những đặc trưng,
quy luật hình thành và phát triển; cấu trúc, chức năng; đối tượng và các nội
dung nghiên cứu của văn hóa gia đình. Hướng tiếp cận xã hội học về văn hóa gia
đình co thể giúp cho các nhà nghiên cứu xã hội học gia đình có thêm những cơ sở
khoa học cho việc triển khai các công trình nghiên cứu văn hóa gia đình và sự
biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Văn hóa gia đình là một nội dung
quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu gia đình. Nghiên cứu văn hóa gia đình giúp
chúng ta có cơ sở khoa học để hiểu đúng bản chất và truyền thống của gia đình
Việt Nam, thấy được những nét tương đồng và khác biệt giữa gia đình Việt Nam
với gia đình các dân tộc khác trong khu vực và trên thế giới. Trên cơ sở đó
chúng ta có thể tìm kiếm những giải pháp và chiến lược phát huy vai trò to lớn
của gia đình trong việc giữ gìn truyền thống quý báu của dân tộc, góp phần củng
cố sự bền vững của gia đình, giữ vững ổn định xã hội, phát triển kinh tế, nuôi
dưỡng, giáo dục và cung cấp nguồn lực con người đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghiên cứu văn hóa gia đình còn giúp
chúng ta hiểu được bản chất văn hóa Việt Nam, bởi vì gia đình Việt Nam là một
thiết chế nền tảng của xã hội Việt Nam truyền thống, có chức năng lưu giữ và
chuyển giao các giá trị văn hóa của dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nhược điểm của các công trình nghiên
cứu về văn hóa gia đình ở Việt Nam từ trước đến nay là chưa đưa ra được một
định nghĩa đầy đủ và một cách giải thích thuyết phục về khái niệm văn hóa gia
đình. Điều này đã gây ra khó khăn cho việc xác định đối tượng và phạm vi nghiên
cứu cảu văn hóa gia đình.
Một số nhà nghiên cứu đôi khi “lờ
đi” hoặc mặc nhiên coi khái niệm văn hóa gia đình đã được mọi người ngầm hiểu.
Kết quả là càng ngày càng có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa gia đình và
khái niệm văn hóa gia đình vốn đã mù mờ càng trở nên mù mờ hơn.
Một số tác giả định nghĩa văn hóa
gia đình bằng cách liệt kê hàng loạt các yếu tố được coi là thuộc về văn hóa
gia đình như cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau, các quan
hệ đạo lý, chuẩn mực, khuôn phép trong sinh hoạt, các quan hệ tình cảm vợ
chồng, việc chăm sóc giáo dục con cái, việc thờ cúng tổ tiên, quan hệ giữa gia
đình với xóm giềng, bạn bè… (Tạ Văn Thành, 1997; Vũ Ngọc Khánh, 1998). Kết quả
là khái niệm này trở nên quá rộng, có nguy cơ bao chứa tất cả các vấn đề, các
hiện tượng có liên quan đến gia đình. Mặt khác, phương pháp liệt kê các yếu tố
không chỉ ra được những đặc trưng bản chất của khái niệm văn hóa gia đình, đồng
nhất văn hóa gia đình với tất cả những biểu hiện của đời sống và sinh hoạt gia
đình.
Các tác giả khác quy văn hóa gia
đình thành các giá trị, chuẩn mực tốt đẹp của đời sống gia đình mà mỗi thành
viên trong gia đình phải chấp nhận tuân theo và có nghĩa vụ thực hiện (Lê Minh,
1997; Lê Như Hoa, 2001). Cách tiếp cận này coi văn hóa gia đình là một mục tiêu
tốt đẹp mà mỗi gia đình cần phải phấn đấu để đạt tới. Ở đây văn hóa gia đình
thuộc về phạm trù những cái đúng, cái tốt, cái đẹp, đối lập với những cái sai,
cái không tốt, cái xấu. Nói cách khác, cái văn hóa đối lập với cái phản văn
hóa. Cách tiếp cận này được chấp nhận rộng rãi trong đời sống thực tế và là cơ
sở để tiến hành cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta nhiều thập kỷ
qua gắn với các nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Tuy nhiên cách tiếp cận trên đây đã
đơn giản hóa khái niệm văn hóa gia đình, làm cho văn hóa gia đình nghiêng về
khía cạnh đạo đức, chính trị nhiều hơn là khía cạnh văn hóa. Ở đây, văn hóa gia
đình trở thành sản phẩm chủ quan của ý chí con người, chứ không phải là hệ quả
khách quan của quá trình tương tác giữa những con người với nhau trong bối cảnh
của một môi trường tự nhiên, lịch sử và xã hội nhất định.
Với tư cách là một phạm trù khái
niệm, văn hóa gia đình có các đặc trưng, quy luật hình thành và phát triển, cấu
trúc và chức năng của nó.
Do văn hóa gia đình là một bộ phận
không thể tách rời và là một dạng đặc thù của văn hóa cộng đồng, cho nên để có
thể hiểu về khái niệm văn hóa và chức năng của văn hóa gia đình cần phải hiểu
khái niệm văn hóa nói chung. Trong phạm vi bài viết này văn hóa và văn hóa gia
đình được xem xét từ hướng tiếp cận xã hội học.
2. Quan điểm xã hội học về văn hóa
và văn hóa gia đình
Văn hóa là một trong những khái niệm
được sử dụng rộng rãi nhất trong xã hội học. Tuy nhiên khái niệm văn hóa trong
xã hội học khác với cách hiểu văn hóa trong tư duy thông thường. Trong giao
tiếp hàng ngày người ta có xu hướng coi “văn hóa” là thuộc về phạm trù những
cái đúng, cái tốt, cái đẹp hoặc văn hóa đồng nghĩa với những cái gì đó cao siêu
như nghệ thuật, văn học, âm nhạc, hội họa…
Theo quan điểm xã hội học, văn hóa
là đặc điểm riêng của con người và xã hội loài người. Văn hóa là tập hợp những
hành vi và quan niệm mà con người học hỏi được với tư cách là thành viên của xã
hội. Con người dùng văn hóa để thích ứng với thế giới trong họ đang sống và để
thay đổi nó. Do đó văn hóa là khái niệm trung tâm dùng để giải thích lý do các
hành vi của con người. Văn hóa có đặc điểm là do học hỏi mà có và cùng chia sẻ
với người khác. Trong phần lớn trường hợp, văn hóa thường được học hỏi trong
một nhóm người, có quan hệ xã hội tương đối gần gũi. Mỗi cộng đồng người có một
truyền thống văn hóa riêng của mình. Có bao nhiêu cộng đồng người thì có bấy
nhiêu truyền thống văn hóa. Mỗi truyền thống đó óc thể được gọi là một nền văn
hóa riêng, mặc dù biên giới ngăn cách giữa các nền văn hóa không dễ dàng xác
định.
Văn hóa là một thuộc tính của xã hội
và thuộc về xã hội, vì thế không có văn hóa thì không có xã hội cũng như không
có xã hội không có văn hóa. Mỗi xã hội có một nền văn hóa riêng nhưng tất cả
các xã hội đều thông qua sử dụng những công cụ chung hay những yếu tố phổ biến
để thể hiện văn hóa riêng của mình. Những yếu tố phổ biến của văn hóa là giá
trị, chuẩn mực, biểu tượng và ngôn ngữ. Trong tất cả các biểu tượng của con
người thì ngôn ngữ là hình thức phát triển cao nhất. Nó cho phép con người chia
sẻ ý nghĩ, tư tưởng, kinh nghiệm, tình cảm và những ước muốn… Không có ngôn ngữ
sẽ không truyền đạt được văn hóa. Ngôn ngữ là chìa khóa để hiểu bất cứ nền văn
hóa nào và bất cứ xã hội nào.
Các nhà xã hội học thường đề cập đến
các yếu tố chuẩn mực và giá trị với tư cách là hiện thân của văn hóa. Theo
Robert Merton, văn hóa là “tập hợp các giá trị chuẩn mực có tổ chức điều khiển
hành vi, có tính chất chung nhất đối với mọi thành viên của một xã hội nhất
định hay một nhóm xã hội nhất định” (dẫn theo Vũ Quang Hà, 2001: 169).
Talcott Parsons (1951) coi văn hóa
là nhân tố chính liên kết các nhân tố khác của xã hội, hoặc theo thuật ngữ của
ông, hệ thống hành động xã hội. Trong một hệ thống xã hội, văn hóa được biểu
hiện trong các chuẩn mực và các giá trị (dẫn theo George Ritzer, 2000: 448).
Anthony Giddens (2001) coi văn hóa
là yếu tố gắn kết các cá nhân với nhau. Nó được biểu hiện trong hệ thống các
giá trị và các chuẩn mực. Theo Giddens, giá trị (values) là những ý niệm trừu
tượng xác định cái gì được coi là quan trọng, đánh giá và đáng ao ước trong
phạm vi một nền văn hóa. Còn chuẩn mực (norm) là các qui tắc ứng xử phản ánh những
giá trị của một nền văn hóa. Các giá trị và các chuẩn mực định hướng cho các
thành viên của một nền văn hóa phải ứng xử như thế nào với môi trường xung
quanh họ. Giá trị và chuẩn mực mang dấu ấn sâu sắc nhưng có thể thay đổi theo
thời gian.
Các nhà xã hội học có xu hướng sử
dụng thuyết tương đối văn hóa, tức là cố gắng tìm hiểu một nền văn hóa bằng
chính những giá trị và chuẩn mực của nền văn hóa đó. Thuyết tương đối văn hóa
đối lập với chủ nghĩa dân tộc (Ethno - centrism) là thói quen phán xét các nền văn
hóa khác bằng cách so sanh qui chiếu với nền văn hóa của dân tộc mình. Những
người theo chủ nghĩa dân tộc trung tâm thườn có cảm giác bất ngờ và khó chịu
khi tiếp xúc với những tập tục văn hóa xa lạ. Cảm giác đó còn được gọi là “cú
sốc văn hóa”.
Việc sử dụng thuyết tương đối văn
hóa cho thấy dưới con mắt của các nhà xã hội học tất cả các nền văn hóa đều
bình đẳng với nhau và có giá trị như nhau dù rất khác nhau. Việc sử dụng thuyết
tương đối văn hóa không có ý nghĩa là chấp nhận vị trí của quyết định luận văn
hóa. Theo quan điểm xã hội học, các nền văn hóa không bao giờ biệt lập mà luôn
diễn ra quá trình tiếp xúc văn hóa, ảnh hưởng, tác động qua lại và học hỏi lẫn
nhau. Biên giới giữa các nền văn hóa là không rõ ràng. Ngay trong nội bộ của
một nền văn hóa cũng không phải là một thực thể thuần nhất, không chứa đựng
những mâu thuẫn và bất đồng. Và những con người trong một nền văn hóa không
tiếp thu các khuôn mẫu văn hóa một cách thụ động trong một thê giới quan duy
nhất. Ngược lại con người có xu hướng cải tạo các khuôn mẫu lạc hậu và sáng tạo
ra những khuôn mẫu mới phù hợp với hoàn cảnh, tạo nên sự biến đổi của văn hóa.
Như vậy, nghiên cứu văn hóa có hai
nội dung quan trọng:
1/ Phát hiện ra những giá trị, chuẩn
mực đặc trưng của nền văn hóa được nghiên cứu.
2/ Nghiên cứu sự biến đổi các giá
trị, chuẩn mực và quá trình hình thành các giá trị, chuẩn mực mới của nền văn
hóa.
Nếu coi văn hóa là gồm tất cả những
gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, thì văn hóa gia đình, một bộ phận
không tách rời của văn hóa chung cũng sẽ bao gồm tất cả những gì làm cho gia
đình cả một cộng đồng này, xã hội này, dân tộc này, khu vực này khác với gia
đình của các cộng đồng, xã hội, dân tộc, khu vực khác. Sự khác biệt đó không
phải ngẫu nhiên, tình cờ mà nó được qui định bởi hàng loạt những yếu tố khách
quan về đời sống vật chất, tinh thần, chế độ xã hội, môi trường tự nhiên của
mỗi cộng đồng người, tồn tại lâu dài trong lịch sử, để lại dấu ấn đặc biệt
trong đời sống xã hội và gia đình, tạo thành cái được gọi là bản sắc văn hóa.
Một dân tộc chỉ được coi là có một nền văn hóa riêng khi chứng minh được bản
sắc văn hóa của mình. Cũng như vậy, khi nói đến văn hóa gia đình là phải chứng
minh được bản sắc của nó. Chẳng hạn những nét khu biệt giữ gia đình phương Đông
và gia đình phương Tây, gia đình Việt Nam và gia đình các nước Á Đông khác cùng
ảnh hưởng Nho giáo, hay sự khác biệt giữa gia đình người Kinh và gia đình các
dân tộc Thái, Tây, Mường, gia đình theo chế độ phụ quyền và gia đình theo chế
độ mẫu quyền các dân tộc Ede, Mnông…
Những nét khu biệt, tính đặc thù hay
bản sắc của gia đình là đối tượng nghiên cứu của văn hóa gia đình. Văn hóa gia đình nghiên cứu những dấu ấn để lại trong đời
sống vật chất, tinh thần của gia đình được biểu hiện thông qua các mối quan hệ,
cấu trúc, chức năng, sinh hoạt, đời sống tâm linh… của gia đình. Đó là những
dấu ấn được duy trì qua lịch sử, trở thành truyền thống, ăn sâu vào tiềm thức,
tâm lý, chi phối hành vi, cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình, giữa
gia đình với xã hội, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Những dấu ấn để lại trong đời sống
gia đình ở các cộng đồng, quốc gia, dân tộc không giống nhau, tạo nên tính đa
dạng của văn hóa gia đình. Sự hội nhập kinh tế, giao lưu văn hóa quốc tế làm
cho các nước có xu hướng hợp tác, liên kết và hiểu biết lẫn nhau nhiều hơn
nhưng không làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc, bởi vì một trong những yếu tố
hình thành nên văn hóa đó là môi trường tự nhiên. Sự gắn bó và phụ thuộc của
văn hóa vào môi trường tự nhiên làm cho văn hóa không thể xuất khẩu được, trong
khi văn minh, một bộ phận của văn hóa lại có thể xuất khẩu được vì nó độc lập
với môi trường tự nhiên. Chính vì thế mà nhiều quốc gia có trình độ văn minh
như nhau nhưng văn hóa thì vẫn khác nhau.
Sự thích ứng văn hóa và biến đổi văn
hóa cũng thuộc phạm vi nghiên cứu của văn hóa gia đình. Nghiên cứu sự thích ứng văn hóa là nghiên cứu quá trình
tiếp thu, truyền thụ các giá trị, chuẩn mực văn hóa gia đình từ thế hệ này sang
thế hệ khác diễn ra như thế nào. Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa gia đình là
nghiên cứu quá trình cải tạo và thay đổi các giá trị, chuẩn mực văn hóa gia
đình truyền thống nhờ sự tiếp xúc và học hỏi các nền văn hóa khác. Nếu gia đình
chỉ tiếp thu thụ động mà không phê phán, không sáng tạo và không thay đổi văn
hóa của chính mình thì không thể duy trì và phát triển được văn hóa của mình.
Các thành tố của văn hóa gia đình
không tồn tại một cách cô lập mà liên kết với nhau tạo thành một hệ thống thực
hiện các chức năng của văn hóa gia đình. Đó là các chức năng truyền tải văn hóa
từ thế hệ này sang thế hệ khác; duy trì sự cân bằng của đời sống gia đình; bảo
đảm sự tiếp nối văn hóa, chống sự đứt đoạn văn hóa; giữ gìn và phát triển bản
sắc văn hóa và chức năng hình thành các giá trị văn hóa mới. Các chức năng
của văn hóa gia đình là đối tượng nghiên cứu của văn hóa gia đình.
Từ sự phân tích đặc trưng, qui luật
hình thành và phát triển, cấu trúc và chức năng của văn hóa gia đình, có thể
định nghĩa văn hóa gia đình như sau:
Văn hóa gia đình là hệ thống những
giá trị, chuẩn mực khu biệt đặc thù điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình và mối quan hệ giữa gia đình với xã hội, phản ánh bản chất của
các hình thái gia đình đặc trưng cho các cộng đồng, các tộc người, các dân tộc
và các khu vực khác nhau được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của
đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường
tự nhiên và xã hội.
3. Tính liên tục và sự biến đổi của
văn hóa gia đình
Trong tất cả các thời kỳ lịch sử đã
qua, gia đình Việt Nam là nơi lưu giữa và chuyển giao các giá trị văn hóa từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên như trên đã nói, văn hóa và bản sắc văn
hóa không phải là một mô hình bất biến. Văn hóa gia đình có qui luật hình thành
và phát triển riêng.
Văn hóa gắn bó với một cộng đồng
người và là sản phẩm của một cộng đồng người. Nhưng các cộng đồng người không
cô lập về văn hóa với các cộng đồng người khác, mà luôn diễn ra quá trình trao
đổi văn hóa. Cho nên văn hóa được hình thành và phát triển dựa trên hai yếu tố:
đó là yếu tố bản địa và quá trình tiếp xúc văn hóa. Văn hóa gia đình Việt Nam
truyền thống được hình thành trên cơ sở kết hợp giữa nền văn hóa bản địa nảy
sinh từ xã hội sản xuất nông nghiệp lúa nước với hệ thống tư tưởng Nho giáo Trung
Quốc với triết lý đạo Phật về gia đình. Xã hội càng phát triển, sự tiếp xúc văn
hóa càng tăng lên. Gia đình Việt Nam không chỉ tiếp xúc với mô hình gia đình
Nho giáo Trung Quốc mà sau này còn tiếp xúc với văn hóa Pháp, văn hóa xã hội
chủ nghĩa, văn hóa Mỹ và các nước phương Tây.
Sự tiếp xúc văn hóa dẫn đến việc học
hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Hai điều kiện để các nền văn hóa thâm nhập
lẫn nhau đó là có một quá trình tiếp xúc lâu dài và có sự tự nguyện của nền văn
hóa bản địa để biến cái ngoại sinh thành cái nội sinh. Đó là quá trình thích
ứng và biến đổi hay còn gọi là quá trình tiếp biến văn hóa. Đây là qui luật của
bất kỳ nền văn hóa nào để tồn tại và phát triển. Và đó cũng là tính tương đối
của văn hóa. Nhờ co tính tương đối văn hóa mà con người có thể hiểu được nền
văn hóa khác và có thể tiếp thu được những tinh hoa của nền văn hóa khác làm
phong phú cho nền văn hóa của chính mình. Ngày nay một nền văn hóa có thể tồn
tại song hành cả những giá trị truyền thống và những giá trị hiện đại, vừa giữ gìn,
duy trì kế thừa truyền thống, vừa biến đổi để phát triển văn hóa. Đó là tính
liên tục và sự biến đổi của văn hóa.
Những nét đẹp văn hóa của gia đình
truyền thống Việt Nam sẽ còn lưu giữ và lưu giữ được bao nhiêu? Giá trị đó có
ảnh hưởng như thế nào trong xu thế phát triển mới của xã hội, đặc biệt trước
những biến đổi rất lớn của cơ chế kinh tế thời hội nhập? đây là một trong những
đề tài lớn đang được xã hội hết sức quan tâm.
Xã hội chuyển đổi bao giờ cũng đặt
ra sự chuyển đổi chung của những giá trị, chuẩn mực. Các giá trị, chuẩn mực là
đặc trưng của văn hóa. Sự biến đổi này nằm ở hai dạng thức. Đó là duy trì hoặc
cải tạo, thay thế những giá trị cũ, lạc hậu, không thích hợp với xã hội mới và
tạo ra giá trị mới.
Việc duy trì các giá trị cũ là điều
tự nhiên của văn hóa, chứ không phải cố gắng để cho nó tồn tại. Văn hóa là một
sự tiếp nối. Ngày xưa người ta sống như thế nào thì bây giờ người ta vẫn tiếp
tục sống như thế và chỉ thay đổi những gì không thích hợp. Sự tiếp nối này giúp
cho văn hóa không bị đứt đoạn, bảo đảm sự ổn định của xã hội. Bởi vì những giá
trị, chuẩn mực được tạo ra từ rất lâu đời, nếu đột ngột bỏ đi thì tạo ra cú
sốc. Mặt khác, văn hóa truyền thống có nhiều mặt tích cực cần được phát huy
trong xã hội hiện đại. Ví dụ chuyện tình nghĩa vợ chồng là một giá trị đạo đức
rất cao đẹp của người xưa. Người ta lấy nhau trước hết vì cái tình nhưng sống
với nhau rồi thì sinh ra cái nghĩa. CÓ cái nghĩa thì vợ chồng mới sống với nhau
được, mới cảm thông và chia sẻ với nhau mọi chuyện, vượt qua khó khăn và cả
những cám dỗ nữa. Câu thành ngữ “tham vàng bỏ ngãi” là người xưa muốn lên án
những người chạy theo lợi ích vật chất mà quên mất tình nghĩa vợ chồng.
Nhiều giá trị của gia đình truyền
thống không còn phù hợp thì cần phải cải tạo, thay đổi để chống sự trì trệ văn
hóa. Ví dụ ngày xưa cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy trong hôn nhân, hay chữ hiếu là
con cái không được xa rời bố mẹ, phải ở quây quần trong một nhà, nghe theo lời
bố mẹ bất kể đúng sai, hiếu là phải có con trai để nối dõi tông đường…. Nhưng
ngày nay, hôn nhân là do con cái tự tìm hiểu và quyết định và chữ hiếu được vận
dụng sáng tạo hơn, không nặng nề như xưa mà chủ yếu là ở việc biết ơn cha mẹ,
sự kính trọng và tình yêu thương chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ.
Các giá trị truyền thống như tình
thương, trách nhiệm, hòa thuận, chung thủy… bản thân tên gọi rất hay và cần
được lưu giữ, nhưng nội hàm của các giá trị đó đã có sự thay đổi bởi vì một
khái niệm đều có những chiều cạnh tích cực và không tích cực. Ví dụ nói về hòa
thuận, vì người ta quá mải mê với yếu tố hòa thuận cho nên dễ bỏ qua chiều cạnh
bạo lực của người chồng đối với người vợ. Để hòa thuận người vợ sẵn sàng nín
nhịn, chịu đựng và vì vậy, quá nhấn mạnh hòa thuận, người ta quên mất quyền lợi
của người phụ nữ. Chữ chung thủy cũng có hai mặt của nó. Người xưa nhấn mạnh
chung thủy về phía người vợ trong khi nới lỏng hơn với người chồng, thậm chí ca
ngợi và đánh giá cao người đàn ông có nhiều vợ. Vì thế mới có câu: trai tài thì
lấy năm, bảy vợ; gái chính chuyên thì chỉ có một chồng. Hiện nay việc cha mẹ
sống cùng con cái trong các gia đình mở rộng ba thế hệ như trong xã hội truyền
thống là chuyện khó thực hiện hơn so với trước đây. Cấu trúc gia đình trong xã
hội hiện đại đã có nhiều thay đổi do quy mô gia đình ngày càng thu nhỏ, số con
của mỗi cặp vợ chồng ít hơn, thanh niên đi tìm kiếm công ăn việc làm xa nhà
nhiều hơn, phụ nữ tham gia nhiều hơn vào sản xuất và hoạt động xã hội, nhu cầu
cá nhân, riêng tư tăng lên… Những thay đổi này làm cho mô hình gia đình hạt nhân
tăng lên trong khi gia đình mở rộng ba, bốn thế hệ giảm đi. Chính vì thế cần
phải có những giải pháp trung hòa hơn.
Biến đổi kinh tế xã hội và giao lưu
văn hóa quốc tế đang mang đến cho gia đình Việt Nam nhiều giá trị văn hóa mới
mà tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em. Việt Nam là một trong những
quốc gia đầu tiên trên thế giới ký vào hai Công ước của Liên Hợp quốc về quyền
của phụ nữ và trẻ em. Đó là Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
đối với phụ nữ (năm 1980) và Công ước quyền trẻ em (năm 1990). Chính phủ Việt
Nam đã phê duyệt các kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến
năm 2000 và 2010, Chương trình hành động quốc gia về trẻ em Việt Nam năm 1990 -
2000, 2001 - 2010. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em (1991, 2004) và Luật phổ cập giáo dục tiểu học (1991).
Những văn bản pháp lý này khẳng định quyết tâm của Nhà nước và nhân dân ta
trong việc đề cao và thực hiện các quyền cơ bản của con người, đặc biệt là
quyền của phụ nữ và trẻ em. Những giá trị tư tưởng nhân văn mới này đã tác động
sâu sắc đến tế bào cơ sở của xã hội là gia đình, được gia đình tiếp nhận.
Việc tiếp nhận giá trị bình đẳng
giới thể hiện ở sự thay đổi vai trò truyền thống của phụ nữ và nam giới trong
gia đình. Người vợ và người chồng đều có quyền tham gia các quá trình sản xuất
và hoạt động xã hội, bình đẳng về cơ hội phát triển, có tiếng nói và có quyền
quyết định như nhau đối với những công việc quan trọng và tài sản chung và cùng
nhau chia sẻ công việc gia đình. Bình đẳng giới còn thể hiện ở sự thay đổi quan
niệm “trọng nam khinh nữ”, quý con trai hơn con gái. Xu hướng ngày nay càng thể
hiện rõ ràng hơn trong việc cha mẹ đầu tư cho con cái của họ học càng cao càng
tốt mà không phân biệt con trai hay con gái.
Cùng với bình đẳng giới, quyền trẻ
em là giá trị nhân văn mới nhanh chóng được gia đình Việt Nam tiếp nhận. Trước
hết là sự thay đổi trong quan niệm của các cặp vợ chồng về giá trị của đứa con.
Trước đây con cái được coi là tài sản riêng của bố mẹ, là sức lao động và nguồn
của cải của bố mẹ. Càng nhiều con càng có nhiều sức lao động do đó sẽ tạo ra
được nhiều của cải cho gia đình. Các cặp vợ chồng luôn mong muốn có nhiều con
vì “nhiều con nhiều của”, “mỗi con mỗi lộc”. Do con cái được coi là tài sản riêng
của cha mẹ nên cha mẹ có toàn quyền quyết định số phận của con cái. Trong quan
hệ cha mẹ con cái, thì con cái phải tuyệt đối phục tùng cha mẹ, không có ý kiến
riêng, không được quyền tham dự vào những công việc của gia đình, kể cả những
công việc có liên quan đến bản thân như chuyện học hành, nghề nghiệp, hôn nhân…
Ngày nay, quan niệm này đã thay đổi về căn bản. Đứa con chuyển từ giá trị kinh
tế sang giá trị tinh thần. Việc đầu tư cho con cái là nhằm phát triển và hoàn
thiện con người (với chi phí lớn cho nuôi dưỡng, học tập, đào tạo nghề nghiệp
kéo dài nhiều năm). Nguồn của cải không chảy từ con cái vào cha mẹ mà chảy từ
cha mẹ vào con cái. Bên cạnh những bổn phận với cha mẹ, trẻ em có tất cả các
quyền của một con người và của một trẻ em trong quan hệ đối với cha mẹ. Trẻ em
không phân biệt trai gái, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con
nuôi, con riêng, con chung, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, thành phần, địa
vị xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc của người nuôi dưỡng, đều được nuôi dưỡng,
đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền theo quy định của
pháp luật. Trong gia đình, cha mẹ là người trước tiên chịu trách nhiệm trước
pháp luật về trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, nuôi dạy trẻ em, dành những điều
kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em.
4. Kết luận
Cho đến nay, khái niệm văn hóa gia
đình còn có những cách giải thích khác nhau. Quan điểm xã hội học về văn hóa và
văn hóa gia đình có thể giúp cho những người nghiên cứu có được một cách nhìn
đầy đủ hơn về cấu trúc, đối tượng, phạm vi, nội dung nghiên cứu của văn hóa gia
đình. Những biến đổi kinh tế xã hội, công nghiệp hóa và hội nhập tạo nên những
giá trị mới của gia đình nhưng không làm mất đi những giá trị tốt đẹp của gia
đình Việt Nam truyền thống. Đó là tính liên tục và sự biến đổi của văn hóa gia
đình. Việc hiểu rõ các đặc trưng của văn hóa gia đình, tính liên tục và xu
hướng biến đổi của văn hóa gia đình là cơ sở xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam
hiện đại.
Tài liệu tham khảo
- Tạ Văn Thành, 1997, Văn hóa gia đình và gia đình văn hóa. Trong: Bộ Văn hóa Thông tin, 1997. Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 162-167.
- Lê Minh, 1997. Phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội. Nxb Lao Động Hà Nội.
- Lê Như Hoa, 2001, Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
- Vũ Ngọc Khánh, 1998. Văn hóa gia đình. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
- Vũ Quang Hà, 2001. Các lý thuyết xã hội học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Anthony Giddens, 2001. Sociology. Polity.
- Ritzer, 2000. Classical sociological Theory. Third Edition. Mc. Graw Hill.
Nguồn: T/c Nghiên cứu gia đình và giới, 3 - 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét